Search This Blog
Tuesday, 6 October 2015
024 Tiêu sái
[bài 24] (Mạn thuật 2/14)
Ngẫm ngợi sơn lâm lẫn thị triều,
Nào đâu là chẳng đất Ðường Nghiêu.
Người tham phú quý người hằng trọng,
Ta được thanh nhàn ta sá yêu.
Nô bộc ắt còn hai rặng quýt,
Thất gia chẳng quản một con lều.
Miễn là tiêu sái qua ngày tháng,
Lộc được bao nhiêu ăn bấy nhiêu.
Chú thích
(024.4) sá: cứ, hãy.
(024.5) rặng quýt: xem bài 013, chú thích (013.8).
(024.6) thất gia: nhà cửa.
Thursday, 1 October 2015
013 Thân nhàn
Thân nhàn dầu tới dầu lui,
Thua được bằng cờ ai kẻ đôi.
Bạn cũ thiếu, ham đèn lẫn sách,
Tính quen chăng, kiếm trúc cùng mai.
Cày chống tuyết ngâm đòi cảnh,
Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi.
Con cháu mựa hiềm song viết tiện,
Nghìn đầu cam quýt ấy là tôi.
Chú thích
(013.7) mựa hiềm: chớ hiềm.
(013.8) nghìn đầu cam quýt: Lý Xung 李衝 (Tam Quốc chí 三國志) trồng một nghìn gốc quýt, bảo con rằng: Ngô hữu mộc nô thiên đầu 吾有木奴千頭 (Ta có một nghìn cây làm tôi tớ).
Tuesday, 15 September 2015
025 Mống tự nhiên
[bài 25] (Mạn thuật 3/14)
Có mống tự nhiên lại có cây,
Sự làm vướng vất ắt còn chầy.
Thủy chung mỗ vật đều nhờ chúa,
Ðộng tĩnh nào ai chẳng bởi thầy.
Hỉ nộ cương như tuy đã có,
Nghĩa nhân lễ trí mựa cho khuây.
Hay văn hay võ thì dùng đến,
Chẳng đã khôn ngay khéo đầy.
Chú thích
(025.1) mống: mầm.
(025.6) mựa: chớ.
(025.6) khuây: quên (đọc âm chữ Hán khuy 虧).
(025.8) chẳng đã khôn ngay khéo đầy: "Khôn ngoan chẳng lọ thật thà, Lường thưng, tráo đấu, chẳng qua đong đầy" (tục ngữ).
Friday, 11 September 2015
027 Ðược thua
[bài 27] (Mạn thuật 5/14)
Sơn thủy nhàn chơi phận khó khăn,
Cửa quyền hiểm hóc ngại thon chân.
Say minh nguyệt trà ba chén,
Ðịch thanh phong lều một gian.
Ngỏ cửa nho chờ khách đến,
Trồng cây đức để con ăn.
Ðược thua phú quý dầu thiên mệnh,
Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn.
Chú thích
(027.2) thon: tự điển Génibrel có chữ này, nghĩa là bị nguy hiểm. Thí dụ: Bơ vơ đất khách, thon von thế này (Errant sur un sol étranger, exposé aux plus grands périls).
Thursday, 10 September 2015
028 Thú ông này
[bài 28] (Mạn thuật 6/14)
Ðường thông thuở chống một cày,
Sự thế bao nhiêu vẫn đã khuây.
Bẻ cái trúc hòng phân suối,
Quét con am để chứa mây.
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá,
Rừng tiếc chim về ngại phát cây.
Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi,
Ông này đã có thú ông này.
029 Áng thủy vân
[bài 29] (Mạn thuật 7/14)
Ở chớ nề hay học cổ nhân,
Lánh mình cho khỏi áng phong trần.
Chim kêu cá lội yên đòi phận,
Câu quạnh cày nhàn dưỡng mỗ thân.
Nhà ngặt túi không tiền mẫu tử,
Tật nhiều thuốc biết vị quân thần.
Ấy còn lẵng đẵng làm chi nữa,
Sá tiếc mình chơi áng thủy vân.
Chú thích
(029.1) ở chớ nề...: ở đời chớ quá nề hà, câu nệ mà thường nên học người xưa. Luận Ngữ 論語: Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an 君子食無求飽, 居無求安 (Học nhi 學而) (Người quân tử ăn không cầu được no thừa, ở không cần cho an nhàn sướng thích).
(029.4) câu quạnh cày nhàn: thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, trong bài Đề Từ Trọng Phủ canh ẩn đường 題徐仲甫耕隱堂 có câu: Bản thị canh nhàn điếu tịch nhân 本是耕閒釣寂人 (Ta vốn là kẻ cày nhàn câu tịch).
(029.5) tiền mẫu tử: tiền vốn tiền lãi.
(029.6) vị quân thần: phép chế thuốc Ðông y chia làm 4 vị: quân, thần, tá, sứ 君臣佐使 vị chủ, vị thứ hai, vị phụ giúp, vị dẫn thuốc. Bệnh nhiều nên biết rõ cả các vị thuốc.
(029.8) sá: xem chú thích sá (024.4).
(029.8) thủy vân: nước mây. Chỉ cảnh nước chảy mây bay, tiêu dao tự tại.
Monday, 7 September 2015
030 Ơn quân thân
[bài 30] (Mạn thuật 8/14)
Chân chăng lọt đến cửa vương hầu,
Ấy tuổi nào thế đã bạc đầu.
Liệu cửa nhà xem bằng quán khách,
Ðem công danh đổi lấy cần câu.
Thân đà hết lụy thân nên nhẹ,
Bụt ấy là lòng bụt há cầu.
Bui một quân thân ơn cực nặng,
Tơ hào chưa báo hãy còn âu.
Chú thích
(030.7) bui: chỉ có.
(030.8) âu: lo lắng.
Sunday, 6 September 2015
031 Am quạnh
[bài 31] (Mạn thuật 9/14)
Am quạnh thiêu hương đọc ngũ kinh,
Linh đài sạch một dường thanh.
Nhà còn thi lễ âu chi ngặt,
Ðời phạp văn chương uổng mỗ danh.
Ðầu tiếc đội mòn khăn Ðỗ Phủ,
Tay còn lựa hái cúc Uyên Minh.
Chi là của tiêu ngày tháng,
Thơ một hai thiên rượu một bình.
Chú thích
(031.1) ngũ kinh: năm bộ kinh sách chính của nhà nho: Dịch, Thư, Thi, Lễ và Xuân Thu (易, 書, 詩, 禮, 春秋).
(031.2) linh đài: đài thiêng. Chỉ tâm linh, con tim, cõi lòng.
(031.3) âu chi ngặt: lo chi nghèo.
(031.5) khăn Ðỗ Phủ: thơ Ðỗ Phủ 杜甫 (712-770) trong bài Phụng tặng Vi Tả thừa trượng thập nhị vận có câu: Nho quan đa ngộ thân 儒冠多誤身 (Mũ áo nhà nho thường làm lụy thân).
(031.6) Uyên Minh: tức Ðào Uyên Minh 陶淵明 (365-427). Có lần làm quan Huyện Lệnh ở Bành Trạnh. Nhân trên quận sai viên đốc bưu (một chức lại nhỏ đi thâu thuế) đến huyện, nha lại trình với ông nên đeo đai ra đón. Ông than: "Ta có thể nào vì năm đấu gạo (lương huyện lệnh thời đó) mà phải khom lưng ư?" rồi trả áo mão cho triều đình, viết bài Quy khứ lai từ 歸去來辭 trong đó có câu: Tam kính tựu hoang, tùng cúc do tồn 三徑就荒, 松菊猶存 (Ba con đường trong vườn đã hoang, nhưng tùng cúc vẫn còn). (Xem Cổ văn Trung Quốc, trang 183-185, Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản Xuân Thu, Houston, USA)
032 Hư ảo
[bài 32] (Mạn thuật 10/14)
Tưởng thân hư ảo nổi bằng bèo,
Chí cũ công danh vuỗn rã keo.
Viện có hoa tàn chăng quét đất,
Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo.
Lòng người tựa mặt ai ai khác,
Sự thế bằng cờ bước bước nghèo.
Không hết kể chi tay trí thuật,
Ðể đòi khi ngã thắt khi eo.
Chú thích
(032.1) hư ảo: nghĩ thân hư huyễn như bèo nổi. Câu này mang ý câu kệ trong kinh Kim Cang 金剛: Nhất thế hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh 一切有爲法如夢幻泡影 (Hết thảy các thứ trong phép hữu vi đều như mơ như ảo như bọt như bóng). Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, trong bài Quy Côn Sơn chu trung tác 歸崑山舟中作 cũng có câu tương tự: Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình 十年飄轉嘆蓬萍 (Mười năm phiêu giạt than thân bồng bèo).
(032.2) rã keo: chí cũ lập công danh chẳng còn bám dính nữa (keo đã rữa).
(032.4) thôi chèo: tiếc hoa tàn nên không quét sân, muốn ngắm bóng trăng trong nước hãy ngưng chèo thuyền.
(032.5) ai ai khác: Tử Sằn 子莘 (tức Y Doãn 伊尹) nói: Nhân tâm chi bất đồng như kì diện yên 人心之不同如其面焉 (Lòng người ta khác nhau như mặt người ta không ai giống ai).
(032.6) bước bước nghèo: việc đời như nước cờ, mỗi bước mỗi ngặt nghèo.
(032.7) trí thuật: ở đời có lắm kẻ nhiều mánh lới, tìm cách đòi hỏi sách nhiễu người thất thế, hoặc thắt buộc gay gắt người trong cảnh khó khăn.
033 Quê cũ
[bài 33] (Mạn thuật 11/14)
Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân,
Lẳng thẳng chưa lìa lưới trần.
Ở thế những hiềm qua mỗ thế,
Có thân thì sá cốc chưng thân.
Vườn còn thông trúc đáng năm mẫu,
Câu ước công danh đổi một cần.
Miệt bả hài gai khăn cốc,
Xuềnh xoàng làm mỗ đứa thôn nhân.
Chú thích
(033.6) một cần: xem bài 30 câu 4: Ðem công danh đổi lấy cần câu.
(033.7) miệt: bí tất, vớ.
(033.7) khăn cốc: khăn cũ.
Saturday, 5 September 2015
034 Trường văn
[bài 34] (Mạn thuật 12/14)
Trường văn nằm ngả mấy thu dư,
Uổng tốn công nhàn biện lỗ ngư.
Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ,
Có lòng bằng trúc mỗ nên hư.
Én từ nẻo lạc nhà Vương Tạ,
Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư.
Chỉn sá lui mà thủ phận,
Lại tu thân khác mực thi thư.
Chú thích
(034.1) nằm ngả: trường học ngày xưa không có bàn ghế, học trò phải ngồi hoặc nằm nghe giảng bài.
(034.2) biện lỗ ngư: phân biệt chữ "lỗ" 魯 với chữ "ngư" 魚. Hai chữ này rất giống nhau, dễ lầm lẫn. Sách Bão phác tử 抱朴子 có câu: Thư tam tả, ngư thành lỗ 書三寫, 魚成魯 (Sách ba lần chép, chữ "ngư" thành chữ "lỗ").
(034.3) miệng tựa bình: Chu Mật 周密 (1232-1298) có câu Thủ khẩu tự bình, phòng ý như thành 守口似瓶防意如城 (Giữ gìn miệng nói tựa bình, canh chừng ý nghĩ như canh thành).
(034.4) nên hư: tiết trực tâm hư 節直心虛 đốt thẳng mà lòng rỗng không. Bạch Cư Dị 白居易: Thủy năng tính đạm vi ngã hữu, Trúc giải tâm hư thị ngã sư 水能性淡為我友, 竹解心虛是我師 (Nước có tính đạm bạc — là bạn của ta, Trúc chẻ ra lòng rỗng — chính là thầy của ta).
(034.5) Vương Tạ: Vương 王 Tạ 謝 là hai thế gia vọng tộc thời Lục Triều 六朝. Thơ Lưu Vũ Tích 劉禹錫: Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến, Phi nhập tầm thường bách tính gia 舊時王謝堂前燕, 飛入尋常百姓家 (Những con én thời trước vẫn đậu ở trước nhà họ Vương họ Tạ, bây giờ bay vào những nhà bách tính tầm thường).
(034.6) Tiệp Dư: tức Ban Tiệp Dư 班婕妤 là nữ quan nhà Hán, sau thất sủng phải ra ở cung Trường Tín 長信 làm bài Hoàn phiếm thi đề trên quạt lụa, tả nỗi lòng, lời đau thương ai oán.
(034.7) chỉn: chỉ, hãy nên, vẫn... "Chỉn sá lui" nghĩa là: hãy nên lui về.
Thursday, 3 September 2015
035 Nhà ta
[bài 35] (Mạn thuật 13/14)
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch,
Kề nước cầm đưa tiếng cửu cao.
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.
Chú thích
(035.3) Cô Dịch: hoa mai thanh khiết như thần nhân ở núi Cô Dịch. Trang Tử 莊子 (Tiêu Dao Du 逍遙遊): Diểu Cô Dịch chi sơn, hữu thần nhân cư yên, cơ phu nhược băng tuyết, náo ước nhược xử tử. Bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ. Thừa vân khí, ngự phi long, nhi du hồ tứ hải chi ngoại. Kỳ thần ngưng, sử vật bất tì lệ nhi niên cốc thục 藐姑射之山 ,有神人居焉,肌膚若冰雪,淖約若處子。不食五穀,吸風飲露。乘雲氣,御飛龍,而遊乎四海之外。其神凝,使物不疵癘而年穀熟 Trên núi Rưởu Cô Dịch, có thần nhân ở đó, Da thịt như băng tuyết, thơ ngây như gái chưa chồng. Không ăn năm loài thóc, hút gió uống sương, cưỡi khí mây, ngự rồng bay, mà chơi ở ngoài bốn bể. Ðịnh thần lại, khiến cho mọi vật không đau ốm mà lúa mùa được. (Nhượng Tống dịch, Trang Tử Nam Hoa Kinh, Xuân Thu xuất bản, USA, trang 57)
(035.4) cửu cao: chín đầm nước sâu. Thi Kinh 詩經 Tiểu Nhã 小雅 (Hạc minh 鶴鳴): Hạc minh vu cửu cao, Thanh văn vu thiên 鶴鳴于九皋,聲聞于天 Chim hạc kêu ở xa ngoài chín đầm, tiếng nghe khắp đồng nội. Cả câu 4 ý nói: suối chảy như tiếng đàn, tiếng hạc.
(035.8) mận đào: Ông Địch Nhân Kiệt 狄仁傑 hay tiến cử người hiền, nên đời khen là đào lí tại công môn 桃李在公門 nghĩa là người hiền đều ở cửa ông ấy cả. Nay gọi các kẻ môn hạ là môn tường đào lí 門牆桃李 là do nghĩa ấy (Hán Việt tự điển, Thiều Chửu). Xem thêm bài 23.
Thursday, 27 August 2015
036 Án tuyết
[bài 36] (Mạn thuật 14/14)
Án tuyết mười năm uổng độc thư,
Kẻo còn lọt lọt chữ Tương Như.
Nước non kể khắp quê hà hữu,
Sự nghiệp nhàn khoe phú Tử Hư.
Con mắt họa xanh đầu dễ bạc,
Lưng khôn uốn lộc nên từ.
Ai ai đều đã bằng câu hết,
Nước chẳng còn có Sử Ngư.
Chú thích
(036.1) án tuyết: Tôn Khang 孫康 đời Tấn 晉, thuở nhỏ nhà nghèo, nhờ ánh sáng tuyết chiếu lên bàn để đọc sách.
(036.2) Tương Như: tức Tư Mã Tương Như 司馬相如 (179-117 trước Công Nguyên), đời Hán, tự Trường Khanh 長卿 , người Thành Ðô 成都. Nổi tiếng về phú, là tác giả của Tử Hư phú 子虛賦, Thượng Lâm phú 上林賦. Lời diễm lệ phóng túng, được coi là mẫu mực, có ảnh hưởng lớn cho thể phú ở Trung Quốc.
(036.3) quê hà hữu: tức vô hà hữu chi hương, chữ của Trang Tử 莊子 (Tiêu Dao Du 逍遙遊): Kim tử hữu đại thụ, hoạn kỳ vô dụng, hà bất thụ chi ư vô hà hữu chi hương, quảng mạc chi dã, bàng hoàng hồ vô vi kỳ trắc, tiêu dao hồ tẩm ngoạ kỳ hạ. Bất yểu cân phủ, vật vô hại giả, vô sở khả dụng, an sở khốn khổ tai! 今子有大樹. 患其無用. 何不樹之於無何有之鄉. 廣莫之野. 彷徨乎無為其側. 逍遙乎寢臥其下. 不夭斤斧. 物無害者. 無所可用. 安所困苦哉! Nay thầy có cây lớn, lo nó vô dụng, thì sao không trồng nó sang làng không có đâu, giữa cảnh nội thật rộng rãi, rồi bàng hoàng không làm gì ở bên, tiêu dao ta nằm khểnh ở dưới, nó sẽ không chết yểu với búa rìu, không sợ có giống gì làm hại, không dùng được việc gì, thì khốn khổ có từ đâu mà tới (Nhượng Tống dịch, Trang Tử Nam Hoa Kinh, Xuân Thu xuất bản, USA, trang 60).
(036.4) Tử Hư: là tên một nhân vật trong Tử Hư phú 子虛賦 nói năng hư huyễn.
(036.5) con mắt họa xanh: Nguyễn Tịch 阮籍 (210-263) người đời Tấn 晉 tiếp khách tri kỉ thì mắt xanh, tiếp kẻ phàm tục thì mắt trắng. "Con mắt họa xanh đầu dễ bạc" ý nói: hiếm gặp người tri kỉ, dễ khi tóc đã bạc không chừng.
(036.6) lưng khôn uốn: Đào Uyên Minh 陶淵明 (365-427) làm huyện lệnh Bành Trạnh, nhân trên quận sai viên đốc bưu đến huyện, nha lại trình ông phải đeo đai ra đón. Đào Uyên Minh nói: Bất vị ngũ đẩu mễ chiết yêu 不為五斗米折腰 Không vì năm đấu gạo mà phải khom lưng.
(036.7) bằng câu: cả câu ý nói nếu ai cũng cong lưng như lưỡi câu hết.
(036.8) Sử Ngư: Sử Ngư 史魚 là tự của Sử Thu 史鰌 đời Xuân Thu 春秋. Làm quan đại phu cho Vệ Linh Công 衛靈公, người chính trực. Khổng Tử 孔子 khen: Trực tai Sử Ngư! Bang hữu đạo như thỉ, bang vô đạo như thỉ 直哉史魚! 邦有道, 如矢. 邦有道, 如矢 Ngay thẳng thay ông Sử Ngư, nước có đạo ông thẳng như mũi tên, nước vô đạo ông cũng thẳng như mũi tên.
Tuesday, 25 August 2015
039 No lòng tự tại
[bài 39]
Vầu làm chèo, trúc làm nhà,
Ðược thú vui, ngày tháng qua.
Cơm kẻ bất nhân ăn ấy chớ,
Áo người vô nghĩa mặc chăng thà.
Khỏi triều quan mới hay ơn chúa,
Sinh được con thời cảm đức cha.
Mừng thuở thái bình yêu hết tấc,
No lòng tự tại quản chi là.
Chú thích
(039.1) vầu: một loại tre.
(039.5) khỏi: chữ Nôm (土 + 思) trong văn bản là một dạng khác của chữ Hán khối 塊 (cf. http://dict.variants.moe.edu.tw/yitia/fra/fra00802.htm). Cả câu ý nói: khi không còn làm quan nữa mới thấy rõ ơn vua.
(039.7) hết tấc: hết mức, hết tấc lòng.
Monday, 24 August 2015
037 Hội phong vân
[bài 37]
Từ ngày gặp hội phong vân,
Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân.
Gánh khôn đương quyền tướng phủ,
Lui ngõ được đất nho thần.
Ước bề trả ơn minh chúa,
Hết khoẻ phù đạo thánh nhân.
Quốc phú binh cường chăng có chước,
Bằng tôi nào thửa ích chưng dân.
Chú thích
(037.1) phong vân: gặp hội phong vân, tức là tế hội phong vân 際會風雲, chỉ sự kẻ hiền tài gặp thời được dùng, công danh hiển đạt. Dịch Kinh 易經 Càn quái 乾卦 Cửu ngũ 九五: Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thủy lưu thấp, hoả tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ 同聲相應, 同氣相求, 水流濕, 火就燥, 雲從龍, 風從虎, 聖人作而萬物睹 (Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô, mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật trông vào).
(037.2) mỗ phân: cả câu ý nói chưa báo đáp ơn vua được phần nào.
(037.3) gánh khôn: cả câu ý nói khó gánh vác được quyền tể tướng.
(037.4) ngõ: ngõ hầu, may được.
(037.4) nho thần: bề tôi nhà nho.
(037.6) hết khỏe: hết sức.
(037.7) chước: cả câu ý nói không có cách gì làm cho nước giàu binh mạnh.
(037.8) ích chưng dân: cả câu ý nói nào đã có ích gì cho dân.
040 Lồng lộng trời
[bài 40]
Lồng lộng trời tư chút đâu,
Nào ai chẳng đội ở trên đầu.
Song cửa ngọc vân yên cách,
Dãi lòng đan nhật nguyệt thâu.
Chim đến cây cao chim nghỉ đỗ,
Quạt hay thu lạnh quạt sơ thâu.
Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế,
Ắt đã tròn bằng nước ở bầu.
Chú thích
(040.1) tư chút đâu: không hề có riêng tây.
(040.3) cửa ngọc: chữ Hán ngọc môn 玉門 chỉ cửa cung vua.
(040.3) vân yên cách: mây khói ngăn cách.
(040.4) lòng đan: lòng son.
(040.4) nhật nguyệt thâu: mặt trời mặt trăng soi thấu.
(040.6) quạt sơ thâu: quạt bắt đầu đem cất đi, vì trời lạnh. Xem bài 34, câu 6: "Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư"; Tiệp Dư tức là Ban Tiệp Dư 班婕妤 nữ quan nhà Hán, sau thất sủng phải ra ở cung Trường Tín 長信 làm bài Hoàn phiếm thi đề trên quạt lụa, tả nỗi lòng, lời đau thương ai oán.
(040.8) ở bầu: ở bầu thì tròn, ở ống thì dài (tục ngữ).
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Trãi 阮廌, Quốc Âm Thi Tập 國音詩集, Việt Nam, Phúc Khê nguyên bản, 1868.
Bùi Văn Nguyên - biên khảo - chú thích - giới thiệu, Ức Trai Di Tập Bổ Sung, Phần Văn Chương, Nguyễn Trãi. Saigon, nxb Khoa Học Xã Hội & Mũi Cà Mâu, 1994.
Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Nguyễn Trãi Toàn Tập tân biên, TP HCM, nxb Văn Học, 2000.
Vũ Văn Kính - phiên khảo. Quốc Âm Thi Tập 國音詩集, TP HCM, Nhà xuất bản Trẻ, 1995.
Nguyễn Thạch Giang - phiên khảo và chú giải. Quốc Âm Thi Tập 國音詩集. Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2000.
Paul Schneider, Nguyen Trai et son recueil de poèmes en langue nationale, France, Marseille, éditions CNRS, 1987.
Trần Trọng Dương, Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2014
Thiều Chửu, Hán-Việt Tự-Ðiển 漢越字典, Hà Nội, nxb Ðuốc Tuệ, 1942.
Thiều Chửu v2.0 Hán Việt đối chiếu: http://www.vietnamtudien.org/tc2/
Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn, Institut of Vietnamese Studies, USA, 2009.
http://www.vietnamtudien.org/chunom-trichdan/
異體字字典 http://dict.variants.moe.edu.tw/
http://140.111.1.40/suoa/suoa.htm
Subscribe to:
Posts (Atom)